Biến ảo cùng thi ca
Cách đây chưa lâu, họa sĩ Lê Thiết Cương khai mạc phòng tranh “Về bến lạ”, lấy cảm hứng từ những thi phẩm trong cuốn sách “Đặng Đình Hưng-Một bến lạ” (3/2021). Những bức tranh đó được coi là phụ bản mang tính sáng tạo riêng. Màu sắc và đường nét đậm phong cách Lê Thiết Cương, tối giản và bay bổng chất thơ.
Triển lãm đã khẳng định thêm một lần về hướng đi khá thú vị cho hội họa. Nói vậy, bởi lẽ cách đây 15 năm, các họa sĩ đã từng rất thành công khi tập trung sáng tác lấy cảm hứng từ văn bản của nhà văn Nam Cao. Đây là kết quả rất thành công của “Cuộc vận động sáng tác mỹ thuật về nhà văn Nam Cao và các nhân vật trong tác phẩm của ông” nhân kỷ niệm 90 năm Ngày sinh nhà văn Nam Cao (1915-2005). Đã có hơn 100 tác phẩm của 87 họa sĩ đương đại tham gia. Triển lãm bày những tác phẩm được chọn lọc trước đó vào đầu tháng 6/2006, tạo nên cảm hứng mới lạ cho người xem. Các họa sĩ đã để lại dấu ấn đặc sắc bằng tác phẩm của mình. Đó là những họa phẩm độc đáo trong cuốn sách “Nam Cao & Tác phẩm qua nghệ thuật tạo hình” (NXB Thông Tấn, 2006). Cuộc vận động sáng tác khởi nguồn cho những ý tưởng kết nối giữa văn học và hội họa lâu dài.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cũng bắt đầu vẽ những bức tranh lấy cảm hứng từ những bài thơ của mình. Ông mới công bố những bức tranh như: “Biến tấu từ trường ca”, “Nhân chứng của một cái chết”; “Một triền sông Đáy” (từ bài thơ Sông Đáy); “Con bống đen đẻ trứng”; “Biến tấu từ một bài thơ”; “Linh hồn người lính làng tôi”… Đó là những bảng mầu mới lạ của Nguyễn Quang Thiều. Sự ám ảnh trong thơ ông mang lại những hòa sắc ảo giác mộng mị. Đọc “Mười một khúc cảm” của ông cho ta thấy khúc nào cũng có những câu thơ mang hình ảnh như một bức tranh sinh động. Đó là những câu thơ hay như: “Ta khóc vụng một ngày thưa bóng mẹ/Tiếng gà buồn mổ rỗ mặt hoàng hôn” (khúc 1). Hay đó là hình ảnh độc đáo: “Khói đã phủ quanh phổi ta/Con rắn nước trườn qua cổ họng” (khúc 2). Hoặc những thảng thốt mơ màng: “Trong vệt sáng cuối cùng có một con kiến lửa/Đang bò về cơn sốt của ta” (khúc 9).
Người đọc sẽ còn thấy nhiều những thi ảnh trong thơ Nguyễn Quang Thiều luôn hiển hiện như tranh mang sắc thái biểu hiện rõ nét. Đó là nỗi niềm mê say trong bài thơ “Dưới trăng và một bậc cửa” như: “Những bối tóc góa bụa xổ tung cười ngất”, hoặc “Những rễ cây ân ái dưới đất nâu/Sự ân ái phì nhiêu và rụng lá”, hay đầy huyễn hoặc với hình ảnh: “Hai cánh tay tôi-hai vây cá rách tướp/Dìu nỗi sợ chửa hoang đi tìm ổ đất buồn”. Và sau đó là bức tranh có sức biểu hiện hình họa lắng sâu: “Không thể nào tìm được em trong đêm nay/Tôi là bông hoa mướp cuối cùng của mùa hạ/U mê rụng xuống/Con cóc già lơ đễnh và tinh quái/Nó vuốt trăng trên mặt nhìn tôi…”. Và còn nữa, vô vàn hình họa bừng sáng ở những bài thơ hoặc trường ca của Nguyễn Quang Thiều. Ông có mảnh đất phì nhiêu sắc màu trong thơ để vẽ và sáng tạo không bao giờ vơi cạn.
Vẽ nhạc Trịnh
Người mở đầu cho những dự án vẽ tranh lấy cảm hứng từ âm nhạc Trịnh Công Sơn là họa sĩ Đặng Mậu Triết. Ông đã sớm sáng tác nghệ thuật từ tình yêu những ca khúc của Trịnh Công Sơn. Nhân kỷ niệm 14 năm Ngày Trịnh Công Sơn rời quán trọ nhân gian, họa sĩ đã mở một triển lãm mang tên “Dấu chân ngựa về” (2015). Ông đã trưng bày hàng chục bức vẽ dựa trên nền nhạc Trịnh Công Sơn. Đó là những cảm xúc tuôn trào với lời ca và giai điệu đậm chất liêu trai và thiền tự qua những bản nhạc như “Biển nghìn thu ở lại”, “Bên đời hiu quạnh”, “Chiếc lá thu phai”, “Chiều một mình qua phố”… Tranh của Đặng Mậu Triết day dứt trầm buồn và giàu tự sự. Mỗi bức tranh như chia sẻ được phần hồn của tác phẩm âm nhạc. Thành công của triển lãm đã khích lệ lớp họa sĩ trẻ ở Huế và một số thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Đến năm sau (2016) một số họa sĩ ở Huế đã hội ngộ trong một cuộc triển lãm vẽ tranh nhạc Trịnh lấy tên “Niệm” để tưởng nhớ nhạc sĩ. Họ đã vẽ tranh qua cảm xúc thấm sâu nỗi buồn về thân phận của Trịnh Công Sơn. Cũng có những niềm vui bừng sáng và dịu dàng đúng với tâm hồn của nhạc sĩ. Các họa sĩ đầy nhiệt huyết khi đến với nhạc Trịnh. Họ dựa vào giai điệu tạo nên những nét vẽ dịu dàng. Còn lời ca được biến hóa thành màu sắc tạo nên không gian trầm mặc nặng trĩu tâm tư. Đặc biệt lời ca của Trịnh Công Sơn nổi bật với những bí ẩn trong nghệ thuật thi ca. Mỗi bài lời ca của Trịnh Công Sơn đều là áng thơ tượng trưng và đôi khi nghiêng màu siêu thực được thể hiện qua hình ảnh huyền ảo. Sức gợi cảm của thi ca ẩn giấu phần triết lý phật giáo luôn chia sẻ với số phận con người trong nhạc Trịnh. Ở đâu ta cũng nghe được và nhìn thấy: “Trên đời người trổ nhánh hoang vu/Trên ngày đi mọc cành lá mù/Những tim đời đập lời hoang phế” (Cỏ xót xa đưa). Hoặc đó là hình ảnh ám ảnh nỗi buồn: “Trên bước chân em âm thầm lá đổ/Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa” (Diễm xưa). Và cũng trong dịp này ở Hà Nội các họa sĩ cũng đã khai mạc triển lãm “Khói trời mênh mông”. Họ cũng vẽ nhạc Trịnh. Khoảng 20 họa sĩ với 20 khúc thức mầu của mình như bị mê hoặc với hình tượng trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Chính vì gợi cảm mãnh liệt ấy mà các họa sĩ luôn tìm đến nhạc Trịnh để sáng tạo. Họ nhập hồn trong cõi tâm linh ám ảnh qua mỗi giai điệu và tứ thơ. Các họa sĩ đã vẽ tranh vì nhớ Trịnh. Đến năm kỷ niệm 18 năm ngày nhạc sĩ đi xa, các họa sĩ lại vẽ và mở triển lãm “Để gió cuốn đi” (2019). Đó là sự cộng hưởng kỳ lạ giữa âm thanh và mầu sắc. Lần này có cả các họa sĩ Hà Nội cùng tham dự. Một không khí đầy khích lệ. Cánh cửa âm nhạc Trịnh rất cuốn hút các họa sĩ bởi những nốt lặng cô đơn và cảm xúc phiêu bồng trong cõi phật. Những bức tranh luôn hiện ra từ giai điệu. Đúng như Trịnh đã hát: “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng/Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” (Diễm xưa). Chính vì sự gọi mời qua hình tượng bay lên trong lời ca mà các họa sĩ thường lấy đề tài cụ thể. Đó là những “Đường phượng bay”, “Sen buồn một mình”, “Từ khi em là Nguyệt” hay “Đóa hoa vô thường”, “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”… Cách thể hiện thị giác hòa âm trong nhạc Trịnh đã làm nên bữa tiệc sắc màu huyền ảo. Thật đáng yêu khi một bức tranh hiện ra mang trình thức trình diễn qua giai điệu: “Từ đó hoa là em/Một sớm kia rất hồng/Nở hết trong hoàng hôn/ Đợi gió vô thường lên/Từ đó em là sương/Rụng mát trong bình minh/Từ đó ta là đêm/Nở đóa hoa vô thường” (Đóa hoa vô thường).
Hành trình bất tận với nàng Kiều
Các thế hệ họa sĩ của hai thế kỷ đều có không ít người mê vẽ tranh cho Truyện Kiều. Đây mới là văn bản thơ được nhiều người vẽ nhất. Trước kia là những tên tuổi lớn như: Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Lê Phổ, Nguyễn Văn Tỵ, hay Nguyễn Đỗ Cung, Mai Trung Thứ… Những họa sĩ bậc thầy này đều có những dấu ấn Kiều với phong cách cổ điển đẹp một cách chuẩn mực. Những năm qua, lớp họa sĩ hiện đại như Thành Chương, Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng, Đặng Tiến, Đặng Xuân Hòa, Lê Thiết Cương… lại có sự thấu hiểu Kiều một cách riêng biệt. Lớp họa sĩ hiện đại có những cảm hứng được thăng hoa cách điệu và đôi phần phản biện với những góc nhìn xưa cũ qua văn bản. Sau này còn có những họa sĩ trẻ dành nhiều năm để vẽ Kiều bằng những góc nhìn tươi sáng.
Truyện Kiều quả là một mỏ vàng cho các thế hệ họa sĩ khai thác theo những cảm hứng mang tính thời đại. Những tác phẩm của họ được coi là văn bản thứ hai của Kiều bằng hình họa và sắc màu đa diện qua những nhân vật đặc sắc và độc đáo dệt nên câu chuyện bất tử của nàng Kiều. Thật đúng là: “Long lanh đáy nước in trời/Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” (Truyện Kiều).





