[Thi cuối kì I lớp 11 của mình đã ra vào đề này. Kiểu đây cũng là bài cuối cùng mình ôn trước khi thi nên nhớ rất kĩ, thấy rất hay và rất muốn vào, nên lúc nó vào thật thì mình đã gớt nước mắt vì cái sự lúc-nào-cũng-trúng-tủ của mình. À mà quên, vì mình thường ôn hết các tác phẩm nên vào bài nào cũng là trúng tủ thôi, hihi :> ]
Nhắc đến dòng hiện thực phê phán trong nền văn học nước nhà, có lẽ xuất hiện đầu tiên trong tâm trí của nhiều độc giả Việt sẽ là tên tuổi nhà văn Nam Cao cùng tác phẩm Chí Phèo – một “cơn địa chấn” trên văn đàn trước CM tháng 8. Lần đầu tiên người ta bắt gặp trên trang sách một tên say rượu cầm con dao đi gào thét, chửi bới, ăn vạ; lần đầu người ta thấy một nông dân với hoàn cảnh cùng khổ và đớn đau hơn cả chị Dậu hay Lão Hạc… Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên, không chỉ chịu tấn bi kịch bần cùng hóa, tha hóa, mà còn bị đè bẹp bởi một bi kịch tàn khốc nhất – bị cự tuyệt quyền làm người.
Truyện ngắn này ra đời vào năm 1941, khi phát xít Nhật xâm lược nước ta, cùng bọn thực dân Pháp đàn áp, bóc lột thậm tệ nhân dân ta. Trải qua hai lần đổi tên, từ “Cái lò gạch cũ” đến “Đôi lứa xứng đôi” rồi chốt lại ở hai chữ “Chí Phèo” quen thuộc, cuối cùng, nhan đề vẫn kết tinh vẫn toàn bộ tư tưởng chủ đề và cảm hứng chủ đạo của thiên truyện. Tác phẩm là lời tố cáo đanh thép giai cấp phong kiến thống trị đã xô đẩy một bộ phận người nông dân vào con đường lưu manh, tội lỗi, không lối thoát. Đồng thời, nhà văn cũng khẳng định bản chất lương thiện vĩnh viễn của người nông dân khốn khổ ngay cả khi họ bị vùi dập đến tưởng chừng như mất cả nhân hình lẫn nhân tính.
Trong văn chương, và trong những tác phẩm nghệ thuật khác, bi kịch là những xung đột, mâu thuẫn gay gắt dữ dội, có ý nghĩa khái quát tiêu biểu và điển hình. Nó thể hiện được những ước mơ, hi vọng, hoài bão chân chính trong trái tim con người với hiện thực đen tối – một hiện thực có nguy cơ hủy hoại và nghiền nát những giá trị tốt đẹp, thiêng liêng nhất. Chí Phèo sinh ra là một con người, nhưng tuyệt nhiên lại không được xã hội chấp nhận, bị tước đoạt quyền làm người, bị khước từ quyền hạnh phúc.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người khiến Chí trở nên đau đớn, tuyệt vọng khi bị thị Nở từ chối lời ngỏ đầy phong tình của mình, “dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”. Cuộc sống màu hồng của Chí Phèo và thị Nở thật ngắn ngủi chớp nhoáng biết bao, hạnh phúc vừa hé mở đã đột ngột khép lại bởi quyết định của thị Nở: “hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Lúc đầu, Chí ngạc nhiên, rồi lờ mờ nhận ra rằng, đến thị Nở còn không chấp nhận kẻ khốn cùng này, thì sẽ chẳng nơi nào cho hắn dung thân để trở về với cuộc sống bằng phẳng kia. Bà cô thấy nhục, thấy tủi, và không cho phép cháu mình lấy một thằng lưu manh chuyên một nghề “rạch mặt ăn vạ”. Ở một nguyên nhân sâu xa hơn, bà cô thị Nở chính là đại diện của dân làng Vũ Đại, là cái loa của những định kiến làng xã khắt khe, điển hình cho những mâu thuẫn, kì thị trong xã hội tàn độc. Mọi thứ vừa được bồi lấp nguyên vẹn thì trong phút chốc, chỉ vì một lời nói chua chát, cay nghiệt mà đã hóa thành tro tàn, thành con số không tròn trĩnh.
Bằng ngòi bút bậc thầy tài xuất của mình, Nam Cao đã dẫn dắt và xây dựng thành công những diễn biến của bi kịch ngang trái mà Chí Phèo phải đối diện. Thị Nở đã khước từ Chí, để lại một mình Chí với ngổn ngang những suy nghĩ, dằn vặt, làm chí muốn kêu, muốn ăn vạ, thế nhưng: “Không có rượu, lấy gì làm máu cho nó chảy”. Một lần nữa, nhà văn tỏ ra vô cùng bản lĩnh trong việc lí giải diễn biến tâm lí nhân vật không hề đơn giản, thuần túy. Trong nội tâm giằng xé gay gắ của Chí Phèo lúc ấy là một sự giao tranh giữa phần quỷ dữ và phần người lương thiện, để rồi cái phần người ấy đã dập tắt được con quỷ đang manh nha và bùng lên trong Chí Phèo. Hắn muốn say để thoát khỏi sự sầu muộn, tuyệt vọng này nhưng không hiểu tại sao càng uống lại cành tỉnh. Thực chất, đó là lẽ thường tình, bởi khi đau đớn cũng là khi con người ta tỉnh táo nhất, giống như biết bao nhân vật trữ tình đa sầu đa cảm trong thơ ca xưa: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh” (‘Tự tình’ – Hồ Xuân Hương). Trong men say, kì lạ thay, “hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành” – một chi tiết được nhắc lại đến lần thứ 3 trong toàn bộ tác phẩm. Bát cháo hành từng là dòng nước ngọt lành tưới mát tâm hồn héo khô, cỗi cằn, hung dữ của Chí, giờ đây chỉ còn vương lại mùi hương đầy ám ảnh. “Hắn ôm mặt khóc rưng rức”, đó là tiếng khóc nức lên, nghẹn ngào và tức tưởi. Nam Cao đã rất tâm đắc với câu nói của một nhà văn Pháp: “Người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Và nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”. Trong các sáng tác của mình, ông nói đến nước mắt như một phần đẹp đẽ của nhân tính con người: đó là nước mắt giàn giụa, tủi nhục của Lão Hạc, là giọt lệ của dì Hảo, là nước mắt người trí thức tên Hộ đã vô tình chà đạp lên lẽ sống tình thương của chính mình… Còn đôi bàn tay của Chí Phèo, đôi tay đã quen với việc đâm thuê chém mướn, từng đạp đổ bao nhiêu cảnh yên vui, thì lúc này lại ôm lấy khuôn mặt đầy vết tích của những lần rạch mặt – như khuôn mặt của một con vật lạ. Cánh cửa của khát vọng hoàn lương vừa mở ra mà đã vội đóng sập lại đầy phũ phàng, đẩy Chí Phèo trở về tình trạng như xưa – tên lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền sống như một con người bình thường đã dần dâng cao đến đỉnh điểm kể từ khi Chí Phèo xách dao ra đi. Trong tâm trí của mình, hắn nghĩ về việc “đến nhà cái con đĩ Nở kia, đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”; thế nhưng đôi chân lại đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Đây là lúc Chí Phèo tỉnh táo hơn ai hết, bởi hắn đã nhận rõ được kẻ thù của đời mình, người đã cướp đi quãng đời thanh xuân tươi đẹp của hắn, đã đẩy hắn vào tù rồi lợi dụng triệt để hắn, đã biết hắn thành nô lệ, thành công cụ của những tội ác. Ở đây, Nam Cao đã xây dựng một màn đối thoại kịch tính giữa Chí Phèo và Bá Kiến – nguyên nhân cội rễ của mọi bi kịch đời Chí. Bá Kiến “ném bẹt năm hào xuống đất” và buông những lời sỉ nhục Chí Phèo, nhưng Chí không còn cầm đồng tiền tủi nhục đó nữa, mà thay vào đó là xả ra một lời tuyên bố dõng dạc và sành sỏi: “Tao muốn làm người lương thiện”. Già đời và khôn ngoan như Bá Kiến cũng không ngờ trước được đến lúc câu trả lời dứt khoát này được đưa ra từ Chí Phèo, nhưng tên cường hào máu lạnh vẫn trở giọng vuốt ve, dụ dỗ mà bản chất là một sự mỉa mai, xảo trá: “Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ”. Và rồi đến chính người đọc cũng như vỡ òa với lời đáp lại khảng khái của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…”. Chí Phèo đã tuyên một bản án đích đáng cho Bá Kiến, cho những kẻ cường hào ác bá đang tồn tại, và cả những thành kiến dày đặc trong xã hội đương thời. Chính tình yêu thương, lòng tốt vô tư của thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo, cuộc gặp gỡ với thị đã cứu rỗi những tháng ngày bế tắc không lối thoát của Chí, nó hệt như một vệt sáng lóe lên từ bùn lầy tối tăm mở đường cho hắn trở về với khoảng thời gian bình yên trước đây hắn từng sống. Nhưng, người nô lệ thức tỉnh ấy đã chết trên ngưỡng cửa trở về làm người lương thiện, hắn quật cường, dứt khoát đoạn tuyệt với đoạn đời ngập đầy bóng tối và tội lỗi. Qua đó, người đọc thấy hiện ra là hình ảnh một anh canh điền lương thiện, đáng thương nhưng cũng đáng giận. Chí chính là một điển hình cho cuộc đời và số phận thê thảm, tha hóa, bế tắc, cho nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp của những người nông dân trong xã hội cũ. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo trở thành dư âm vang vọng và day dứt, song vẫn chưa là cái kết cho một bi kịch đau đớn tột cùng. Cả dân làng Vũ Đại, không một ai coi hắn là người, cánh cửa lòng họ đã đóng chặt trước Chí Phèo – người mà họ vẫn coi là con quỷ dữ. Khát vọng của Chí bị chôn vùi trong từng tấc đất. Người làng Vũ Đại là một đám đông câm lặng và cam chịu, họ cũng mang hình ảnh của một xã hội bế tắc trước cách mạng.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi tìm ra chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Nhà văn cất lên tiếng nói cảm thương cho những người nông dân vùng lên đấu tranh manh động, tự phát, dễ bị mua chuộc và lợi dụng. Đồng thời, tác giả kết tội đanh thép bọn cường hào ác bá hoành hành dữ dội và những thành kiến nông thôn làng xã Việt Nam trước CM T8.
Qua việc lí giải và diễn tả một cách tỉnh táo, sắc sảo về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, Nam Cao đã khẳng định được bản chất lương thiện vĩnh viễn ở người nông dân Việt Nam đương thời dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất. Có thể thấy, vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp trong truyện ngắn “Chí Phèo” và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác.
<3_banhmithiu_





