Cùng t tìm hiểu thêm về Tiếng Việt để yêu và giữ gìn Tiếng Việt:
“NHỨT”
/1/ Cứ tưởng “Nhứt” là cách nói của người miền Nam (châu thổ Đồng Nai – Cửu Long), nào ngờ “Nhứt” còn trở ngược ra miền Trung, tỉ như người xứ Nẫu cũng gọi “Nhứt”, và đi ngược ra đàng Ngoài, như người xứ Nghệ cũng gọi “Nhứt” (KHÔNG phải “nhất”)!
/2/ Vậy, “nhất” từ đâu ra?
2a) Quí bạn tra tự điển hiện nay, thấy ký tự “一”, ghi là “nhất”. Ồ, xin chú ý, quí bạn đang đọc … chữ Quốc ngữ ghi “nhất”.
Trước khi có chữ Quốc ngữ, gặp chữ Hán ghi: 一, khỏi biết đọc luôn! Vì chữ Hán là văn tự biểu ý, KHÔNG phải biểu âm, không có “đánh vần”, đâu biết đàng mà đọc! Phải đi học chữ Hán, nghe thầy đồ đọc sao thì nhớ nằm lòng rồi đọc theo.
Ký tự “一” (và ký tự 壹 được dùng thay cho “一”) trước kia đọc là “nhất” hay “nhứt”?
2b) Thời bây giờ, bên Trung Hoa, họ ghi “bính âm” tức mượn ký tự Latin để chỉ cách đọc tiếng Hán (ghi bằng chữ Hán). Thời trước kia, chưa giao du chưa biết đến ký tự Latin, mà cũng… đâu có máy ghi âm, biết đọc ra sao mới “chuẩn” nè?
2c) Chưa kể, trong ngôn ngữ vẫn có những thay đổi, biến thiên về cách đọc theo dòng thời gian (theo từng thời kỳ này kia).
2d) Được biết, “tiếng phổ thông” (tiếng Bắc Kinh) hiện nay dựa theo cách đọc trong thời kỳ Nhà Thanh. Theo đó, người Mãn Châu khi cai trị Trung Hoa, họ học tiếng Hán và đọc tiếng Hán không giống hoàn toàn so với người Hán mà có “biến thiên” theo giọng (accent) của họ.
Nhà Thanh tồn tại khá lâu dài, từ 1636 đến 1912, những 276 năm! Nhiều quan lại, sĩ phu người Hán phụng sự trong triều chính nhà Thanh đã nói theo cách của người Mãn Châu, trộn lẫn “tiếng Hán được Mãn Châu hóa” với cách đọc “Mãn Châu được Hán hóa” khá phức tạp.
Hệ quá: cách đọc trong tiếng Hán (ghi bằng chữ Hán) có thay đổi, biến thiên.
2e) Điều này có tác động ít nhiều đến sự thay đổi cách đọc trong âm Hán-Việt trong quãng thời gian giữa thế kỷ 17 rồi thế kỷ 18 (bên Tàu: vào thời nhà Thanh). Ra sao, cần tìm hiểu thêm.
Cần nhớ: âm Hán-Việt GẮN LIỀN với chữ Hán (chữ Hán kéo theo âm Hán-Việt). Âm Hán-Việt vào thời Đường ắt có dị biệt với âm Hán-Việt thời nhà Minh, có dị biệt với âm Hán-Việt thời nhà Thanh.
Sự biến thiên, dị biệt là CÓ – nhưng, thay đổi cụ thể ra sao thì cần đến những kiến giải tỉ mỉ của giới ngôn ngữ học mới được!
2f) Trong thế kỷ 17, ở Đàng Trong, miền duyên hải, miền châu thổ, quen gọi là “Nhứt”. Ở Đàng Ngoài, xứ Nghệ, xứ Thanh vẫn gọi “Nhứt”.
-
Tạm suy đoán: Trước khi phân ranh Đàng Trong, Đàng Ngoài, ký tự “一” (và ký tự 壹 được dùng thay cho “一”) được mọi người đọc là “NHỨT”! Thành thử khi lưu dân ở đàng Ngoài theo chân chúa Nguyễn vô định cõi, họ vẫn giữ cách gọi này (“Nhứt”).
-
Sau khi phân tranh, định cõi riêng biệt, ở đàng Ngoài tiếp xúc, bang giao với Nhà Thanh bên Trung Hoa (còn đàng Trong thì không bang giao chánh thức với nhà Thanh).
Có thể trong thời kỳ dài, bang giao giữa nhà Lê trung hưng với nhà Thanh suốt một thế kỷ rưỡi (từ lúc Nhà Thanh cai trị Trung Hoa 1636, cho đến lúc Lê Chiêu Thống của Nhà Lê trung hưng sụp đổ 1789), những thay đổi trong cách đọc chữ Hán bên Trung Hoa đã kéo theo sự biến thiên “dích dắc” trong âm Hán-Việt. Chẳng hạn, “Nhứt” đổi sang đọc là “Nhất”.
Tác động này chủ yếu ở vùng kinh thành và các vùng phụ cận thuộc châu thổ sông Hồng – Thái Bình (nhưng không đủ tác động đến “vùng xa” là xứ Nghệ, nơi đây vẫn còn giữ nhiều “tiếng Việt cổ”, trong khi ở châu thổ sông Hồng có nhiều biến động trong ngôn ngữ).
TẠM THAY LỜI KẾT Trên đây vẫn là những ước đoán, thử tìm hiểu vì sao ở xứ Thanh, xứ Nghệ cho tới Đàng Trong (miền duyên hải, miền châu thổ Cửu Long) gọi “NHỨT”.
Mong các vị trong ngành ngôn ngữ học đưa ra những kiến giải tỉ mỉ, xác đáng ở mức tối đa ./.
(hình ảnh: cánh đồng lúa AN NHỨT, ở Long Điền (Bà Rịa))
Nguồn đã ẩn





