Ca dao, dân ca và sức mạnh nội tâm của một dân tộc lạc quan
Mẹ tôi là một người thích chữ nghĩa, nên tôi lớn lên từ câu hát, lời ru đến ca dao tục ngữ được mẹ nhắc hàng ngày. Mẹ vẫn thường nói: “thua keo này ta bày keo khác”, “còn người là còn của”, với mong muốn đứa con của mẹ luôn vững vàng trước những thử thách, khó khăn của cuộc đời. Mẹ kể, ngày xưa ngoại lạc quan lắm, ngoại dặn mẹ tôi cố gắng học, vì “không ai nghèo ba họ, không ai khó ba đời”. Chẳng rõ có thật là thế không, nhưng cách câu nói ấy đi vào đời từ những ngày thơ bé, làm tôi tin chắc rằng nó đã phần nào an ủi mẹ, để mẹ nó cứ nhìn đó mà vươn lên.
Ngày bé, tôi đọc được một bài dân ca Bình Trị Thiên về mười quả trứng, mà sau này, tôi vẫn hay nhắc về nó như một ví dụ điển hình cho tinh thần lạc quan kì lạ của người Việt. Cả bài, đọc đến quả nào, quả đấy cũng “ung”, hy vọng của tôi đặt trọn vào 3 quả trứng còn lại, nhưng cuối cùng, chúng cũng chẳng vẹn nguyên: “Còn ba trứng nở ra ba con/Con: diều tha/Con: quạ bắt/Con: mặt cắt xơi”. Tưởng chừng, nỗi bất hạnh đã đẩy họ rơi vào cảnh túng quẫn, nhưng kết thơ, họ vẫn ở đó, lạc quan đến lạ vì tin rằng vẫn còn gà mẹ để có quyền hy vọng vào tương lai:
“Chớ than phận khó ai ơi,
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.”
Văn học dân gian, tuy không phải tất cả, nhưng đều kết thúc theo motif thiện thắng ác, dù đôi khi, biện pháp trừng phạt cái ác lại rất mạnh tay (như trong truyện Tấm Cám, Tấm dội nước sôi, Cám chết). Mãi sau này, từ dòng văn học cách mạng giai đoạn 1920 đến thơ ca kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tôi vẫn thấy người Việt mình luôn lạc quan rất lạ. Bởi lẽ, giữa biết bao mất mát, hy sinh, quân dân vẫn quyết “một lòng ra đi, nào có xá chi đâu ngày trở về” (Đoàn Vệ quốc quân, Phan Huỳnh Điểu), đi nhưng không rụt rè, sợ hãi, mà đi trong tâm thế hiên ngang, oanh liệt: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Theo chân Bác, Tố Hữu). Người lính ngày xưa đâu ngại khó nguy, xe “không có kính ừ thì có bụi”, mà bụi thì “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật).

Khi tiếng bom đã lùi xa, thì tiếng còi xe cấp cứu thời COVID lại vang lên dồn dập, ám ảnh đến nhói lòng. Những ngày ấy, giữa lệnh giãn cách toàn xã hội, ai cũng chỉ có thể ở yên trong nhà, trên mọi phương tiện truyền thông là những tin tức liên quan đến cách ly và lây nhiễm. Tang thương là thế, mất mát cũng nhiều, nhưng người Việt mình vẫn giữ được sự lạc quan rất riêng.
Tôi còn nhớ rõ những trào lưu nghe rất vui mà cả già trẻ lớn bé ai cũng biết, cũng thuộc: cà phê bọt biển, điệp khúc “Hạ còn vương nắng”, hay giai điệu “trái đất tôi yêu màu xanh” với những chiếc khẩu trang y tế được truyền từ Nam ra Bắc, từ Á đến Âu, nghĩ lại vẫn thấy vừa thương, vừa tự hào. Bởi dẫu hoang tàn có, đau thương có, mất mát cũng có, nhưng người Việt mình vẫn tích cực bước qua, câu chuyện ấy thoắt cũng đã là chuyện của 1000 ngày trước. Để rồi sau Covid, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phục hồi nhanh nhất khu vực.

Năm nhất đại học, tôi có cơ hội tìm hiểu về một số nét đặc trưng của người Việt trong môn “Cơ sở văn hóa Việt Nam”. Trong quyển sách cùng tên, PGS. TS. Trần Ngọc Thêm đã viết: “Chính nhờ có lối tư duy âm dương từ trong máu thịt mà người Việt Nam có được triết lí sống quân bình: trong cuộc sống gắng không làm mất lòng ai; trong việc ăn ở, gắng giữ sự hài hòa âm dương trong cơ thể và hài hòa với môi trường thiên nhiên.” Vì mọi vật đều có âm với dương, nên để cân bằng, để trung hòa giữa hai thái cực, người Việt mình dễ dàng thích nghi với mọi hoàn cảnh. Ông cho rằng “người Việt Nam là dân tộc sống bằng tương lai”, họ tin vào những câu chuyện với một cách nghĩ hóm hỉnh, khôi hài, “được ăn cả, ngã”… thì chỉ đơn giản là về nhà ăn cơm.





