Từ tác phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng sau đây, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu: “Trán thi sĩ chạm mây nhưng trong ruột thơ vẫn cháy lên ngọn lửa đời rất ấm”.
Bài làm
Tôi từng tự hỏi, tại sao thưởng thức những áng thơ lại mang đến cho tôi một trải nghiệm đặc biệt như nhìn ngắm một loài hoa đẹp? Đến với một tác phẩm thơ, có khi ta thấy thi phẩm ấy vừa có cái hương của hơi thở thời đại in đậm trên trang viết, cái nồng nàn đắm say của những dư vị đầy bay bổng, phong phú. Cùng lúc, tác phẩm thơ cũng hiện diện với hình sắc đặc biệt của vần nhịp, hình ảnh, câu từ. Nhận định của nhà thơ Xuân Diệu đã đưa đến cho tôi một câu trả lời thấm thía. Đó là bởi “Trán thi sĩ chạm mây nhưng trong ruột thơ vẫn cháy lên ngọn lửa đời rất ấm”. Bài thơ “Tây Tiến” đã cho thấy một cách trọn vẹn những “chạm mây” và “ngọn lửa đời” được viết nên từ ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng.
Viết thơ không khó nhưng viết sao cho hay mới là thách thức, yêu cầu mà mỗi nhà thơ chân chính cần làm được. Để làm được điều này, đòi hỏi tâm trí, suy tư của thi sĩ phải “chạm mây” – tức phải luôn không ngừng sáng tạo, có được sự bay bổng trong câu từ và cách thể hiện. Ấy vậy, điều làm nên điều cốt lõi trong thơ – tức “ruột thơ” phải là “ngọn lửa đời rất ấm”. Ở đây, nhà thơ Xuân Diệu muốn khẳng định mối quan hệ của văn học nói chung với đời sống. Theo “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, mỗi tác phẩm không thể thiếu “ngọn lửa đời” – tức hơi thở của thời đại, sự muôn hình vạn trạng của đời sống phải hiện hữu trên trang giấy. Xuân Diệu gọi đó là “ngọn lửa” bởi những dư vị của đời sống sẽ là điều làm nên sức sống của thi phẩm, những dấu ấn đặc biệt mới luôn sưởi “ấm” tâm hồn bạn đọc. Như vậy, nhận định của nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định những yêu cầu cần có ở một nhà thơ chân chính. Bên cạnh sự lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú và tâm hồn nhạy cảm, tâm hồn nhà thơ cũng cần gắn bó mật thiết với cuộc đời. Chính sự hài hòa của hai yếu tố này sẽ gây dựng cơ sở để làm nên giá trị của một tác phẩm và tầm vóc của người nghệ sĩ.
Xuân Diệu đã đưa ra một nhận định vô cùng đúng đắn, thể hiện cái nhìn sâu sắc về hành trình sáng tác của người nghệ sĩ. Người làm thơ luôn mang trong mình một tâm hồn bay bổng, lãng mạn. Với những rung cảm đặc biệt, thi sĩ sở hữu một tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động trước những vẻ đẹp của cuộc đời. Chính việc để những tâm tư sẵn sàng “chạm” tới “mây” giúp họ có khả năng tưởng tượng phong phú, những ý tưởng thơ ca vượt ra khỏi giới hạn của thực tại. Đặc biệt, bản chất muôn đời của văn học bao giờ cũng là sự độc đáo, sáng tạo. Bằng lòng với những khuôn mẫu suông nhạt, nhà thơ có chăng đang tước đi “sự sống” của trí tưởng tượng, của chính tác phẩm mình viết? Đặc biệt, mỗi nhà thơ biết cách nhìn nhận mọi điều dưới góc độ mới lạ, không ngừng tạo ra sự mới mẻ trong cách nhìn, cách cảm, cách viết, thi phẩm mới khẳng định được giá trị lâu bền, người nghệ sĩ mới chứng tỏ được phong cách sáng tạo của bản thân.
Thế nhưng, chính nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng khẳng định về tầm quan trọng của hiện thực trong thơ:
“Đừng làm những câu thơ đi kiếm sao kim
Thứ vàng ấy loài người chưa biết đến.”
Thơ sẽ là vô nghĩa nếu chỉ là những “câu thơ đi kiếm sao kim”, bay bổng tới những khung trời xa lạ. Mỗi trang thơ còn phải chứa đựng hơi thở từ đời sống, là kết quả của quá trình nhà thơ thâm nhập và trải nghiệm cuộc đời. “Ngọn lửa đời rất ấm” chỉ có được khi nó được hun đúc từ tấm lòng nhà thơ luôn sẵn sàng giao cảm với cuộc sống; trải nghiệm mọi vui, buồn,… của con người và thời đại. Có như thế, thơ ca mới thực hiện được sứ mệnh cao cả là “làm cho tâm hồn con người thêm phong phú” (M.L.Kalinine); giúp người đọc thêm hiểu về nhiều cuộc đời, số phận được gửi gắm trên trang viết. Đặc biệt, “ngọn lửa đời” ấy không khô cằn, băng giá mà rực sáng, ấm áp. Bởi khi ấy, hơi thở thời đại được gửi gắm trong trang thơ được viết nên từ khao khát hướng con người đến cái chân – thiện – mĩ, cuộc sống tốt đẹp hơn nơi ngòi bút nhà thơ.
Được biết đến là một tiếng thơ hồn hậu và tài hoa, nhà thơ Quang Dũng không ngần ngại thể hiện sự bay bổng, lãng mạn trong mỗi bài thơ của mình. Bài thơ “Tây Tiến” được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi nhà thơ đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đoàn quân Tây Tiến ông từng gắn bó khi xưa. Đây cũng chính là bài thơ làm nên tên tuổi và khẳng định dấu ấn của Quang Dũng trên văn đàn lúc bấy giờ. Bài thơ được viết nên từ nỗi nhớ của tác giả về những năm tháng hành quân trên núi rừng Việt Bắc cùng binh đoàn Tây Tiến.
Trong “Tây Tiến”, ta thấy Quang Dũng đã không ngần ngại “chạm mây” trong cách ông miêu tả thiên nhiên, con người Tây Bắc và trong ngôn ngữ thơ đầy lãng mạn. Núi rừng Tây Bắc vốn được biết đến là nơi có địa hình thiên nhiên cách trở, đầy nguy hiểm. Ấy vậy, Quang Dũng vẫn tìm thấy ở nơi đây sự thơ mộng, trữ tình ẩn giấu nơi cảnh vật:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Ở đây, từ “hoa” có thể hình dung đến cảnh đoàn quân đốt đuốc hành quân về Mường Lát trong đêm sương mịt mù. Họ mang theo ngọn đuốc mà nhìn từ xa giống như một dòng sông hoa ẩn hiện trong sương đêm. Cách sử dụng từ ngữ trong câu thơ này đầy đặc biệt, đã phần nào cho thấy cái nhìn, cách tưởng tượng đầy phong phú của nhà thơ “xứ Đoài mây trắng”. Cái lãng mạn, bay bổng mà câu thơ này toát lên dường như đã tô thêm sự thơ mộng cho khung cảnh Tây Bắc, cho hình ảnh đoàn quân. Quả không sai khi mỗi câu thơ của Quang Dũng được ví như nằm giữa biên giới giữa thật và mơ, mờ ảo như mây khói. Đến câu thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, Quang Dũng mang đến một sự hình dung đầy hư ảo, thơ mộng về hình ảnh những ngôi nhà chỉ thấp thoáng ẩn hiện trong màn mưa của của Tây Bắc. Những câu thơ được viết với toàn thanh bằng, phần nào đã đưa người đọc đến cảm giác bâng khuâng, đầy mộng mơ. Đây có chăng chính là cảm nhận đặc biệt được nhìn qua con mắt đầy lãng mạn, tài hoa của những người lính Tây Tiến? Bức tranh thiên nhiên của cảnh sông nước Tây Tiến còn đầy kì ảo, thơ mộng khi chỉ được chấm phá bằng vài nét phác tinh tế:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”
Hình ảnh “chiều sương” đầy mộng mơ đi cùng với đại từ phiếm chỉ “mây” càng khẳng định Quang Dũng đã thật sự “chạm mây” vào những vần thơ của mình. Chính điều này đã tạo nên sự bâng khuâng, mờ ảo của kí ức, của hoài niệm da diết nơi nhà thơ về Tây Bắc. Không gian bảng lảng của khói sương tưởng như trong cõi mộng bởi ta chỉ thấy thấp thoáng “hồn lau”, “dáng người”:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
“Lau -” được nhân hóa để trở nên có linh hồn: lay động, phơ phất nơi bến bờ, nơi tâm hồn con người luôn hướng về vùng đất cũ. Trong khung cảnh huyền ảo ấy, ta thấy hình bóng con người thấp thoáng – là những cô gái Tây Bắc hay là những chiến sĩ Tây Bắc đang vượt thuyền qua sông? Thiên nhiên trở thành một sinh thể đầy sức sống có chăng bởi hồn thơ đầy tinh tế của Quang Dũng đã kịp nắm bắt những chuyển động đầy tinh tế của tạo vật? Có như thế, ta mới thấy được những cánh hoa “đong đưa” đầy tình tứ ẩn hiện nơi dòng nước lũ đang cuộn chảy mạnh mẽ.
Đặc biệt, sự lãng mạn, bay bổng ấy còn được Quang Dũng thể hiện trong cái nhìn về cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi đây. “Chạm mây” trong mỗi vần thơ là cách cảm, cách nhìn nhận đầy nên thơ về con người, cuộc sống nơi Tây Bắc:
“Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Và:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khung cảnh thực mà như mơ, bởi nó được thể hiện qua con mắt lãng mạn của những chàng lính Tây Tiến đầy trẻ trung, tràn đầy niềm lạc quan. Cả doanh trại như bừng sáng dưới ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc; như lộng lẫy hơn bao giờ hết nhờ dáng điệu “e ấp” của những cô gái Thái. Cách nói “đuốc hoa” lại lần nữa nhấn mạnh đến tâm hồn đầy bay bổng của nhà thơ Quang Dũng. Ta thấy một khung cảnh sáng rực bởi ngọn lửa nơi đầu đuốc, một sức sống đầy rực cháy sưởi ấm tâm hồn những người lính trẻ. Đặc biệt, sự lãng mạn, tài tình của Quang Dũng còn thể hiện trong cách nhà thơ sử dụng ngôn ngữ: cách xưng hô chuyển từ “em” sang “nàng” rồi lại là “em”. Ta cảm nhận được “em” tựa như một nàng thơ kiều diễm của xứ Tây Bắc – không chỉ mang đến sự ấm áp, yêu thương trong nồi xôi nếp mà còn mang đến không khí mê say, ấm áp tình quân dân, gần gũi như tình cảm gia đình trong không gian đêm hội.
Hơn cả, cái lãng mạn nơi Quang Dũng còn thể hiện ở cách nhà thơ thể hiện ở khát vọng hướng đến vẻ đẹp đầy thơ mộng của thế giới mơ ước và tưởng tượng. Điều này được hiện lên thông qua vẻ đẹp đầy hào hoa của những người lính trẻ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đôi “mắt trừng” hướng tới những giấc mộng có chăng là hướng tới giấc mơ về những ngày đất nước độc lập; giấc mơ về những ngày thong dong tự tại? Hơn cả, hình ảnh “dáng kiều thơm” không chỉ làm hiện lên vẻ đẹp của những người con gái Hà Thành duyên dáng mà còn phản ánh tâm hồn lãng mạn của những người lính trẻ. Họ luôn giữ trong tim hình bóng người mình thương – đó là động lực tinh thần giúp họ có thêm sức mạnh để vững vàng trên chặng đường chiến đấu.
Ấy vậy, thơ không chỉ là những gì bay bổng, sáng tạo mà còn phải là hiện thực đời sống được thể hiện nơi trang viết. Nhà thơ Chế Lan Viên khi ấy không sai khi khuyên các nhà thơ: “Hãy nhặt lấy chữ ở đời mà góp nên trang”. Ta thấy trong “Tây Tiến”, Quang Dũng đã “nhặt lấy” những gian khổ, khó khăn của cuộc sống chiến đấu mà mỗi người lính trải qua để viết nên những vần thơ đầy xúc động. Trong bài thơ, ông đã không ngần ngại khắc họa địa hình hiểm trở nơi thiên nhiên Tây Bắc với cái “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” của núi cao, vực sâu; sự hiểm nguy từ thú dữ nơi đây với tiếng oai linh “gầm thét” và “trêu ngươi”. Cuộc sống chiến đấu khó khăn không chỉ dừng lại ở việc thiếu lương thực, tư trang mà còn vì người lính phải chịu đựng hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Ở đây, ta thấy xuất hiện hình ảnh những người lính tiều tụy, ốm yếu, da xanh xao bởi những cơn sốt rét nơi rừng thiêng nước độc khiến tóc họ cứ rụng dần. Đặc biệt, cách nói “quân xanh màu lá dữ oai hùm” vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa ẩn dụ. Màu xanh ấy không chỉ là màu lá ngụy trang để tránh lại hiểm nguy mà còn là màu da đã nhợt nhạt bởi trải qua những cơn sốt rét rừng đầy gian nguy. Những câu thơ này khiến ta liên tưởng đến cách nhà thơ Tố Hữu đã từng viết về những gian khổ của cuộc đời người lính:
“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa.”
Hơn thế, nhà thơ đã nhiều lần nhấn mạnh đến sự hi sinh của người lính Tây Tiến:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Ta hình dung trước mắt hình ảnh người lính hành quân ra trận phải trải qua biết bao nhọc nhằn của chặng đường hiểm trở. Họ không chỉ đối diện với sự nguy hiểm của nơi rừng thiêng nước độc mà cả những đói khát, bệnh tật,… cũng đã khiến nhiều người lính phải hi sinh, nằm lại dọc đường hành quân. Hai chữ “dãi dầu” và “gục” thực sự đã thể hiện trọn vẹn những khó khăn, gian khổ mà người lính đã phải trải qua. Đến cuối bài thơ, sự hi sinh của người lính lại hiện lên một lần nữa, càng giúp ta cảm nhận được “ngọn lửa đời rất ấm” mà Quang Dũng đã thắp lên từ tấm lòng xót xa, ngợi ca những người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
Dọc cung đường Tây Bắc, ta chứng kiến biết bao nhiêu chiến sĩ đã nằm xuống, hi sinh khi anh dũng bảo vệ đất nước. Những nấm mộ của người lính được miêu tả một cách đầy xót xa khi chỉ nằm “rải rác” ở nơi “viễn xứ” không hẹn một ngày được trở về quê hương. Viết về những đớn đau nhưng không mang màu sắc tang thương, bi lụy, ngòi bút đầy bi tráng đã giúp Quang Dũng khắc họa sự ra đi của người lính một cách vô cùng đặc biệt:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Ta hình dung được sự thiếu thốn, gian khổ của người lính trong thời chiến. Vì không đủ điều kiện để an táng một cách chu đáo, họ ra đi chỉ có những manh áo đã rách vai sờn màu vì nắng gió; có những tấm nứa, tấm tranh bao bọc lấy thân thể. Tuy nhiên, hình ảnh “áo bào” cùng cách nói giảm nói tránh “về đất” đã làm giảm đi tính chất bi thương của những đau đớn, mất mát. Tiếng “gầm” mà sông Mã cất lên phải chăng chính là tiếng khóc đầy đau đớn, tiếc thương cho những chiến sĩ đã anh dũng hi sinh, là khúc tráng ca tiễn đưa những người lính? Tầm vóc sử thi, vẻ đẹp đầy hào hùng của người lính từ đó chính là “ngọn lửa đời rất ấm” mà nhà thơ Quang Dũng đã để lại cho người đọc hậu thế. Viết về những khó khăn, gian khổ nhưng hơn cả, nhà thơ còn khẳng định sự bất tử của những người lính. Họ ra đi nhưng thực chất là về với sự che chở của quê hương để trường tồn mãi mãi cùng sông núi, trong lòng nhân dân.
Hơn cả, điều làm nên những vần thơ “chạm mây” mà vẫn “cháy lên ngọn lửa đời” phải kể đến bút pháp tài hoa, tài năng nghệ thuật của nhà thơ Quang Dũng. Bằng việc sử dụng linh hoạt các từ láy gợi hình, gợi cảm; các biện pháp tu từ đặc sắc hay tạo dựng sự lạ hóa cho ngôn từ, Quang Dũng thật sự đã tạo nên chiều sâu cảm xúc cho bài thơ “Tây Tiến”. Đặc biệt, ở bài thơ còn là sự kết hợp giữa bút pháp tương phản trong cách miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp của người lính; giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Mỗi vần thơ vì thế như “chạm mây” bởi được Quang Dũng hướng tới cái cao cả, hào hùng; ấm áp “ngọn lửa đời” bởi khắc họa hiện thực kháng chiến đầy bi tráng. Lãng mạn vốn là đặc điểm của tâm hồn của người nghệ sĩ nhưng đây chính là một biểu hiện của sự sáng tạo nơi nhà thơ Quang Dũng. Bởi lẽ, sự lãng mạn mà Quang Dũng thể hiện trong Tây Tiến rất khác biệt so với những bài thơ cùng thời lúc bấy giờ. Nếu những bài thơ trong thời kì kháng chiến chống Pháp chủ yếu hướng đến ca ngợi lí tưởng cứu nước, vẻ đẹp anh dũng của người lính thì Quang Dũng đã hướng đôi mắt, những rung cảm tâm hồn đến vẻ đẹp hào hoa của họ. Đặc biệt, nhà thơ “xứ Đoài mây trắng” đã thể hiện những tưởng tượng, quan sát đầy bay bổng về thiên nhiên. Từng bị phê phán là lãng mạn tiểu tư sản nhưng dường như chính nhờ sự “chạm mây” vượt qua truyền thống mà bài thơ ấy đã “đạt đến sự nhất nguyên của cái đẹp, một giá trị nằm ngoài thời gian” (Đỗ Lai Thuý)
Đặc biệt, “thơ hay là hay cả hồn lẫn xác” (Xuân Diệu), là chỉnh thể hài hòa giữa nội dung và hình thức nên thơ cũng cần cách thể hiện, truyền tải phù hợp để những “chạm mây”, những “ngọn lửa đời” được hiện hữu trong tâm trí người đọc một cách trọn vẹn. Có sự bay bổng, hiện thực cuộc sống được nâng đôi cánh, thơ ca cần có sức nặng từ những suy tư, chiều sâu triết lý làm bệ đỡ để dẫn dắt người đọc tự hoàn thiện chính mình, vươn tới giá trị chân – thiện – mỹ.
Để bài thơ được viết ra là thành quả của những “chạm mây” và “ngọn lửa đời” không phải điều dễ dàng bởi nó đòi hỏi mỗi thi nhân phải hiểu thấu được nhiệm vụ của mình trên hành trình sáng tác. Nhà thơ cần không ngừng khẳng định phong cách cá nhân trong cách nhìn, cách cảm và cách viết để mỗi “chạm mây” đều khiến người đọc ngỡ ngàng khi cuộc sống được nhìn qua lăng kính mới lạ. Đặc biệt, nhà thơ cũng cần không ngừng trải nghiệm đời sống, để tâm hồn mình rung cảm với mọi vui buồn của cuộc đời. Người đọc khi đến với thơ cũng cần rộng mở đón nhận những câu chuyện của cuộc sống, thời đại, những cảm quan đầy sáng tạo của nhà thơ. “Một bản nhạc hay cũng không có ý nghĩa gì với một đôi tai không thính nhạc” (C.Mac) nên độc giả cần để “đôi tai” của mình lắng nghe tiếng lòng nhà thơ; tìm kiếm những điểm tương đồng trong những gì tác giả gửi gắm và trải nghiệm của chính mình. Có như thế, những “chạm mây”, “ngọn lửa đời” mới thực sự phát huy hết giá trị vốn có.
Làm thơ đòi hỏi thi nhân phải lao động miệt mài bởi sáng tạo thơ ca chân chính không bao giờ chấp nhận sự qua loa, cẩu thả. Tôi tin rằng, chỉ có những vần thơ được viết ra từ những “chạm mây” của hồn thơ đầy lãng mạn; những “ngọn lửa đời” được thắp sáng từ ngòi bút luôn sẵn sàng dấn thân, thơ mới có sức sống lâu bền. Để làm được điều ấy, có lẽ mỗi thi nhân trước khi đặt bút viết cần hiểu rằng: “Trán thi sĩ chạm mây nhưng trong ruột thơ vẫn cháy lên ngọn lửa đời rất ấm”. Bài thơ “Tây Tiến” chính là thành quả của quá trình nhà thơ Quang Dũng “chạm mây” bằng hồn thơ đầy phóng khoáng, hào hoa; nhóm lên “ngọn lửa đời” bằng tấm lòng hướng về thời đại kháng chiến huy hoàng. Chính điều này khiến mỗi vần thơ của Quang Dũng – dù đi qua bao nhiêu thời đại vẫn “neo đậu” vững chãi trong tâm hồn bạn đọc.
Tham khảo những bài viết liên quan tại đây:
Phân tích bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng
Nét độc đáo trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Xem thêm:
- Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
- Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2025: Tủ sách Thích Văn học
- Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học siêu hot: Tài liệu
- Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học





