<Mình từng nói là mình rất thích thơ, và giờ mình sẽ nói là đây là bài thơ lớp 12 mà mình thích nhất ❤ Lúc còn ôn thi, mỗi lần học đến bài phân tích ‘Tây Tiến’ là mình lại dâng trào cảm xúc và cứ rơm rớm ấy ❤ >
MỞ BÀI: Nếu như phong trào Thơ mới được gọi là “một cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc”, thì ta cũng có thể coi nền thi ca thời chống Pháp là chùm hoa ngát hương và có phần lãng mạn của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Cuộc chiến gian khổ hào hùng ấy đã được minh họa lại như một áng sử thi rực rỡ sắc màu, mà tiểu biểu nhất là những tác phẩm mang đậm dấu ấn chân thực của chiến tranh, được sáng tác bởi những chiến sĩ, cán bộ đang trực tiếp xung phong nơi trận địa, như Tố Hữu, Huỳnh Văn Nghệ hay Chính Hữu… Trong số đó, người được xem là “đứng riêng một ốc đảo”, luôn nổi bật và tài ba là nhà thơ Quang Dũng, với tác phẩm “Tây Tiến” – một khúc hồi tưởng đã hóa thành một kiệt tác thi ca.
KHÁI QUÁT: Quang Dũng gia nhập đoàn binh Tây Tiến vào cuối năm 1947; sau một năm gắn bó cùng đồng đội, ông chuyển sang một đơn vị khác. Tháng 12 năm 1948, khi tham dự đại hội toàn quân ở Phù Lưu Chanh – một ngôi làng nhỏ bên dòng sông Đáy hiền hòa, Quang Dũng đã sáng tác nên bài thơ “Tây Tiến”. Bao xúc cảm ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ ấy mà bắt đầu, và những vần thơ hay nhất đã bật trào trong miền nhung nhớ khôn nguôi – nhớ đồng đội, nhớ thời chinh chiến đã qua. Qua đó, nhà thơ khắc tạc bức tượng đài đoàn binh Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng, lãng mạn, bi tráng. Ban đầu, bài thơ mang nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, song, trong lần in thứ hai, tác giả lược bỏ đi chữ “nhớ”, chỉ để lại vỏn vẹn 2 tiếng ngắn gọn mà thân thương, tập trung thể hiện chủ đề tác phẩm. [Chủ đề khổ thơ]
KHỔ 1: Những dòng thơ đầu như ca lên cả một con đường hành quân ra trận, giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ biết bao.
*** Bài thơ mở ra qua một tiếng gọi nao lòng, được bật lên để giải thoát cho nỗi niềm nhớ nhung dường như vẫn luôn nén chặt, bồi hồi và đầy xúc động:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Tiếng thơ ngân xa theo dòng sông Mã – con sông chạy suốt chặng đường hành quân, đã chứng kiến những vui buồn, gian khổ hay mất mát của người lính. Những thanh âm của thác ghềnh sông Mã vang dội thành bản nhạc nền cho hành khúc Tây Tiến. Cảm nhận được điều đó, nhà thơ Phan Quế từng bình rằng: “Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ“. Thế nhưng, với tác giả, khi ông nói “xa rồi” nghĩa là con sông đã trở thành một trời quá vãng, nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại và rồi lơ lửng. Nỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng như giăng mắc một màn sương trống trải, để rồi nhà thơ vì không tìm thấy điểm tựa cho nỗi nhớ nhung mà phải cất lên thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi” đầy tha thiết. Hai câu thơ tô đậm các cung bậc cảm xúc vẫn còn nóng hổi, gợi dậy kí ức về các địa danh, tất cả như vẫn còn rành rành trong tâm trí:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Sự độc đáo trong thơ Quang Dũng là đã nét lãng mạn bay bổng, không tô hồng hay thoát li cuộc đời, mà nó cất cánh bay lên từ mảnh đất hiện thực khắc nghiệt. Sài Khao là nơi thâm sơn cùng cốc, với thiên nhiên như vùi lấp con người trong thung lũng sương mù dày đặc. Sương lạnh thấm vào da thịt, trắng xóa mịt mờ, khiến đoàn binh vô cùng nhọc mệt, nhưng câu thơ nhờ đó mà tạo nên hiệu ứng lớp nghĩa thật đẹp: những làn sương rừng đã phủ lấp đi sự mỏi mệt của người lính để làm toát lên vẻ hào hoa của những trí thức từ Hà Thành mĩ lệ. Sau những khắc khổ ở Sài Khao là những lộng lẫy lung linh ở Mường Lát – nơi hoa dại phủ kín các sườn núi, triền đồi với màu sắc rực rỡ, xinh đẹp nhất vùng Tây Bắc. Hai chữ “hoa về” nghe nhẹ nhõm, thanh bình trong đêm hơi, xoa dịu những nặng nề, gian khó của chặng đường hiểm trở.
*** Bằng con mắt của nghệ sĩ tạo hình, và hơn hết là bằng trải nghiệm có thực, nhà thơ đã khắc họa bức tranh chân thật, sống động về không gian hoạt động của người lính Tây Tiến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai pha luông mưa xa khơi.”
Theo nhận định của nhiều tác giả trong văn giới cùng thời, bốn câu thơ này đã đạt đến trình độ “thi trung hữu họa”, mang vẻ đẹp của thể thơ tứ tuyệt. Những con dốc gập ghềnh, quanh co, nhưng độ cao của nó lại hiên diện qua từ láy “thăm thẳm” – dường như để diễn tả cái ngút ngàn vượt tầm mắt người chiến sĩ. Có thể nói, “cồn mây” là một sự sáng tạo ngôn từ giàu sức gợi hình của Quang Dũng, bởi nó cho thấy con người như đang cheo leo ở một vị trí rất cao, mũi súng tưởng chừng như chạm đến tận mây trời: “súng ngửi trời”. Hai chữ “ngửi trời” được vận dụng đầy khéo léo trong phép nhân hóa, gợi liên tưởng về khẩu súng hòa bình đang ngỡ ngàng, thám thính miền đất lạ, mang theo vẻ tinh nghịch của người trí thức lên đường trong buổi đầu kháng chiến. Câu thơ thứ ba ngắt nhịp ở giữa, tựa như bị gấp khúc, đem đến cảm giác hai sườn núi vút lên cao thành con đường vạn lý trường chinh, rồi đột ngột đổ xuống thành những khe vực hãi hùng. Quang Dũng đã tạo nên một nghệ thuật đối lập tương phản, làm cho không gian thiên nhiên bị bẻ đôi, trở nên chênh vênh, dựng đứng, hùng vĩ mà dữ dội, hiểm nguy. Giọng thơ gân guốc, hào hùng nhờ rất nhiều thanh trắc bỗng trở nên nhè nhẹ, bâng khuâng bởi câu thơ kết toàn thanh bằng, như kéo dài âm điệu mượt mà trong lời thơ. Ánh mắt người lính mở ra cao rộng, xa xăm, để rồi tâm hồn họ bỗng dịu hơn khi bắt gặp mấy nếp nhà ở dãy Pha Luông đang thấp thoáng hiện ra trong mưa rừng sương núi. Những câu thơ phối hợp bằng trắc tài tình, với âm điệu như va đập vào nhau, tạo nên sự hài thanh đặc trưng cho thể hành.
*** Nhà thơ không mĩ lệ hóa rừng núi, tức không mĩ hóa cuộc chiến tranh; nhà thơ nhìn thẳng vào hiện thực khắc khổ, trần trụi:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đem Mương Hịch cọp trêu người”
Trong thơ ca, rừng núi không vô hồn, vô tri, vô giác, bởi từ xa xưa, dân gian vẫn có thành ngữ “ma thiêng nước độc”. Nhưng, cái mới của Quang Dũng chính là bằng cái tài thẩm âm tinh tế, và vẫn của người đã sống ở rừng, đã nghe và đã nhìn, ông ghi lại những chủ âm và cả những âm u bí hiểm đặc thù của rừng già Tây Bắc. Đó là thanh âm của thác nước rền vang, như “gầm thét” được cực tả qua phép nhân hóa, là bóng cọp lờn vờn quanh doanh trại, khiến người đọc cảm nhận được cái oai linh rờn rợn của núi rừng lúc chiều buông, đêm về. Con đường hành quân đầy gian nan, bào mòn sức khỏe con người, làm cho anh lính “dãi dầu” nắng mưa, sương gió, trở nên mệt mỏi, tơi bời. Có thể, người lính Tây Tiến đã ngủ gục trên súng mũ trong những phút nghỉ ngơi hiếm hoi, đã thiếp đi giữa mênh mông rừng núi. Song, phải chăng họ cũng đã lặng lẽ hi sinh trên dọc đường hành quân, bỏ lại đời xanh tuổi trẻ? Ta cảm nhận đâu đây nét trẻ trung, tinh nghịch qua ba chữ ‘cọp trêu người’, và cả cái khẩu khí dứt khoát, mạnh mẽ và ngang tàng của người chiến sĩ qua từng lời thơ. Họ tỏa sáng ngay trên nền thiên nhiên khốc liệt bằng vẻ đẹp của tinh thần ung dung, dũng cảm, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, như Tố Hữu cũng từng nhắc đến:
“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngả mình trên nếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm mát lúa đồng xanh.” (‘Trăng trối’ – Tố Hữu)
*** Âm điệu đang căng thẳng bi thương, bỗng chuyển sang êm ả thanh bình khi hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Giờ phút quây quần đầm ấm quanh nồi cơm nếp bốc khói thơm ngào ngạt đã làm ấm lòng người lính trải qua núi cao vực thẳm, những chiều tà thác đổ, những đêm sâu cọp gầm. Những cảnh tượng dữ dội đã ở sau lưng rồi. Dừng chân ở một bản làng giữa rừng sâu, các chiến sĩ được những người đồng bào, những thiếu nữ đang ở độ tuổi thanh xuân như những bông hoa rừng đón tiếp niềm nở bằng bữa cơm nếp xôi mà khói hương từ đấy cứ thơm ngát mỗi bước quân hành, cũng giống như những kí ức của nhà thơ Quang Huy:
“Buổi anh đi em hơ tàu chuối ngự
Nắm xôi rền thơm mãi giữa hàng quân.”
Câu thơ của Quang Dũng có từ “ôi” để gợi lên nỗi nhớ, và “nhớ ôi” như tiếng nói hoài niệm, xao xuyến cháy bỏng trong trái tim nhà thơ. Bữa cơm đầu lên khói tỏa lan mùi nếp xôi, gợi nhớ tới không khí gia đình đầm ấm, xua tan đi cảm giác heo hút trống vắng ở tâm hồn những người chiến sĩ còn rất trẻ. “Mùa” ở đây phải chăng là mùa của nỗi nhớ về những tấm lòng thơm thảo, của kỉ niệm một mốc thời gian đã trở thành dấu ấn in sâu trong trái tim người lính Tây Tiến.
*** Hành trang của những người lính Tây Tiến ăm ắp những kỉ niệm đẹp đẽ về tình quân dân – một tình cảm lớn lao, mới mẻ của thời đại Cách mạng. “Quân với dân như cá với nước” là một hình ảnh đẹp nói về tình nghĩa sâu nặng gắn bó mật thiết, sự gắn bó tự nhiên mà bền bỉ ân tình. Trong thời kì chiến tranh, vạn ngôi nhà, vạn người dân đều coi anh bộ đội cụ Hồ như những người thân ruột thịt, cần được bảo vệ, chở che mỗi lần hiểm nguy, mà bao thế hệ người Việt Nam đã từng biết đến qua những câu chuyện lịch sử, qua những lời hát đầy xúc động trong tác phẩm ‘Huyền thoại mẹ’ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Mẹ về đứng dưới mưa/ Che từng căn hầm nhỏ/ Xóa sạch vết con về/ Mẹ ngồi với cơn mưa”, hay qua những câu thơ quen thuộc về những anh bộ đội về làng trong bài “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông:
“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về”.
Đó là tấm chân tình vô giá không bao giờ phôi pha, là cái ngọt ngào tin cậy của tình người đã nuôi dưỡng tâm hồn và sức mạnh của người lính.
KHỔ 2: Đoạn thơ thứ hai là chuyến hành trình phiêu lưu cảm xúc của người lính Tây Tiến, có rộn vang náo nhiệt, mà cũng có cả những lưu luyến chia xa.
*** Những gian truân, khốc liệt đối với tuổi trẻ hừng hực sức sống đã lùi xa. Giữa đại ngàn hoang vu, cổ sơ ấy, sáng lên một đêm liên hoan lửa trại:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến, cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Một chữ “bừng” diễn tả ánh sáng đột ngột phá tan màn đêm tăm tối, chữ “bừng” ấy còn là sự bừng lên của tiếng nhạc và điệu khèn, của xiêm áo lộng lẫy. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau lung linh như là “đuốc hoa”, mang theo cái rạo rực, vui vẻ của các chiến sĩ. Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”.
Nhưng trong thơ Quang Dũng, đêm hội vui tươi, hân hoan mà cũng không kém phần trang trọng. Những người thiếu nữ xúng xính trong xiêm áo, xuất hiện qua vầng ánh sáng, trong sự ngỡ ngàng của những người lính. Bộ trang phục của họ mang màu sắc xứ lạ phương xa, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc vùng cao, làm tôn lên vẻ đẹp của những nàng tiên bước ra từ câu chuyện cổ tích dân gian. Tuy nhiên, câu thơ cũng có thể là lời đùa vui, tinh nghịch khi những chàng trai Tây Tiến đóng giả làm những thiếu nữ “e ấp”, thẹn thùng để đêm hội thêm phần rộn rã. Họ hòa mình cùng nhịp sống tưng bừng, hòa vào điệu múa đầy quyến rũ trong tiếng khèn đặc trừng của miền Tây Bắc. Không khí của âm nhạc, vũ điệu say đắm và lãng mạn đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi. Thêm vào đó là lòng yêu đời, là niềm lạc quan, nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về thành Viên Chăn rực rỡ, hoa lệ của xứ sở nghìn đền đài tháp lấp lánh. Dù trong những giờ phút thư giãn, thoải mái nhất thì những chàng lính Tây Tiến vẫn luôn cháy rực khát vọng về một ngày mai hòa bình cho Tổ quốc, cho nước bạn Lào.
*** Nếu ở bốn dòng thơ trên kỉ niệm tươi mới khiến lòng người xao động, bồi hồi thì bốn dòng thơ sau lại như dìu dắt hồn người về miền bâng khuâng, man mác trong một chiều bảng lảng khói sương như trong cõi mộng:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Chiều sương và hồn lau là những hình ảnh tĩnh, song những dáng người cầm lái con thuyền độc mộc lướt theo dòng nước chảy xiết lại làm đong đưa, động đậy những bông lau bên bờ. Hai hình ảnh tĩnh và động bổ sung cho nhau, tạo nên bức tranh hài hòa. Đại từ ”ấy” như nhấn mạnh rằng đây là chiều sương đã hóa thành kỷ niệm. Câu thơ thứ hai được Nguyễn Bùi Vợi coi là “thấm nỗi buồn cao thượng như trong Đường thi”; bởi sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, nhìn khắp “nẻo bến bờ” đều thấy bóng dáng những bông lau mang linh hồn như con người, tạo nên vẻ cô liêu, hoang vắng cho cảnh vật. Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây mang vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường qua nét vẽ cách điệu: “dáng người trên độc mộc”. Đó phải chăng là bóng dáng dịu dàng, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông trên con thuyền gỗ, hay là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông dài, thác dữ? Điệp ngữ “có thấy”, “có nhớ” như chạm khắc vào lòng người một nỗi hoài niệm da diết. Trên dòng nước lũ cuộn xiết, những cánh hoa rừng “đong đưa”, quyến luyến như làm duyên với trên mặt nước, gợi vẻ diễm lệ, tao nhã của miền Tây trong cảnh chia xa với người lính. Động từ “trôi” được đảo lên đầu câu, không chỉ mang ý nghĩa tả thực về hình ảnh thiên nhiên tạo vật, mà còn làm bật lên nỗi nhớ đang trôi miên man trong dòng cảm xúc của tác giả.
*** Đoạn thơ đã để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị song lại có thể tô vẽ nên hai bức tranh tuyệt đẹp: một tranh bức sơn mài rực rỡ, lóng lánh miêu tả đêm liên hoan và một bức tranh lụa mềm mại, gợi cảm, thấm đượm nỗi niềm vấn vương, bịn rịn. Lời thơ chuyển điệu một cách tự nhiên, từ hân roan, rộn ràng để rồi hướng về với chiều sâu nội tâm, mang giọng điệu khắc khoải, đầy thương nhớ.
KHỔ 3: Bàn về thi phẩm ‘Tây Tiến’, nhà nghiên cứu văn học Phong Lan đã gọi bài thơ là “tượng đài bất tử về người lính vô danh”, có lẽ bởi đoạn thơ thứ ba đã dựng nên hình tượng những chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp vừa hào hoa, vừa bi tráng.
*** Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, để rồi ca ngợi vẻ đẹp của họ qua những câu thơ hay nhất. Nhà thơ đã hồi tưởng và chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để vẻ nên bức chân dung chung của toàn đơn vị:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Ba chữ “không mọc tóc” làm bật lên tâm thế chủ động của người lính Tây Tiến. Dường như, các anh tự cạo trọc đầu để thuận tiện trong chiến đâu, và cao cả hơn là vì tình thương yêu, đoàn kết, đồng lòng với những người đồng đội đã bị rụng tóc vì bệnh tật. Khẩu khí ngang tàng của những anh ‘vệ trọc’ được nhấn mạnh qua phép đảo ngữ: ‘Tây Tiến đoàn bình’. Dẫu biết căn bệnh sốt rét rừng làm cho da dẻ xanh xao, vàng vọt, nhưng Quang Dũng không cảm nhận đó là màu ‘vàng nghệ’ trên đôi má anh vệ quốc quân của Tố Hữu, mà ông đã lãng mạn hóa, lạ hóa hình ảnh người lính thành ‘quân xanh màu lá’ – màu xanh của lá rừng bạt ngạt, của cành lá ngụy trang, của bộ quân phục đẹp đẽ và đáng tự hào. Đây cũng là nghệ thuật nhất quán trong cuộc đời cầm bút làm thơ của người nghệ sĩ xứ Đoài. Và, ẩn sau ngoại hình ấy là nội lực “dữ oai hùm” của đoàn quân – sức mạnh vô địch, dữ dằn như hùm thiêng, làm chủ cả núi rừng, được cực tả qua phép tu từ ẩn dụ vật hóa. Trong văn học trung đại, biện pháp nghệ thuật vật hóa ấy từng được vận dùng tài tình trong thơ Phạm Ngũ Lão: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”, hay trong bài cáo tràn đầy lòng tự hào dân tộc của Nguyễn Trãi:
“Sĩ tốt kén tay tì hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.” (‘Bình Ngô Đại Cáo’)
Như vậy, đây không phải là một cách viết mới mẻ, sáng tạo của Quang Dũng, mà điều đó thể hiện rằng ông đã kế thừa lịch sử thơ ca dân tộc, kế thừa vẻ đẹp của cha ông ta trong truyền thống đánh giặc cứu nước.
*** Khi chân dung ngoại hình đã được hiện lên rõ nét, hào hùng, ngòi bút của nhà thơ dần lách sâu và đời sống nội tâm của những người chiến sĩ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Ánh sáng của lí tưởng ngời lên và kết đọng trong đôi mắt mở to, uy nghiêm của người lính Tây Tiến. Họ ôm giấc mộng ‘qua biến giới’, nghĩa là ấp ủ chí khí, khát vọng anh hùng của trang nam nhi thời loạn từ muôn thuở xa xưa. Đó không phải là giấc mộng mang màu sắc phong kiến, không phải ‘tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” , mà nó mang đậm dấu ân thời đại. Bởi lẽ, họ không chỉ mong ước hòa bình cho Tổ quốc thân yêu, mà còn ước mơ về hòa bình cho nước bạn Lào. Đây là giấc mộng không bị giới hạn bởi quốc gia, giai cấp, lãnh thổ, mang đậm dấu ấn thời đại HCM và tinh thần quốc tế cộng sản. Cùng với đó là những giấc mơ vô cùng gần gũi, nên thơ. Thời gian ban đêm là khi tất cả những cảm xúc ban ngày đều lắng lại, người lính đối diện với lòng mình. Sau tất cả những xúc cảm có khi đăm say, khi ngọt ngào, thiết tha, rộn rã… thì cuối cùng, người lính Tây Tiến vẫn nhớ nhất khung trời Hà Nội cùng với tình thân ruột thịt và cả mối tình đầu của thuở sinh viên.Trong nền thi ca cùng thời, nhà thơ Chính Hữu – một trí thức Tây học hoàn toàn, khi lên chiến khu Việt Bắc, nhớ tiếng quả sấu rơi trên mái phố lớp học: ‘mái buồn nghe sâu rụng’; hay nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ cũng là một chàng trai Hà Thành ra đi: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Còn ở đây, trong chiều sâu nỗi nhớ của các anh lính, hình bóng Hà Nội và “dáng kiều thơm” luôn thấp thoáng hiện lên giữa lộng lẫy sắc hoa rừng Mường Lát, giữa âm thanh điệu nhạc tiếng khèn, giữa giấc mộng về thành Viên Chăn. Hà Nội thân thương đẹp như một người con gái yêu kiều, thanh lịch, duyên dáng, mang theo cái thơm tho của cả đất trời. Qua đó, Quang Dũng tôn vinh vẻ đẹp của những người lính chiến Tây Tiến – những chàng trai hào hùng, lãng mạn, hào hoa, đã gạt những tình riêng vì nhịp đập của trái tim trĩu nặng tình yêu nước.
*** Viết về chiến tranh, Quang Dũng không hề tô hồng, không thoát li, trốn tránh những mất mát đau thương, những hi sinh, song bút pháp lãng mạn rất tự nhiên vẫn nhẹ nhàng nâng cánh những câu thơ, để chúng không trở nên tang tóc, ảm đạm:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Đặt hai chữ ‘rải rác’ lên đầu dòng thơ, tác giả khéo léo tái hiện cảnh tượng cái chết luôn theo sát từng bước quân hành, và nhiều người lính đã vui thân nơi viễn xứ, nơi rừng sâu núi thẳm, đất khách quê người ở miền biên cương xa xôi. Đoạn thơ mang màu sắc trang trọng, thành kính, thiêng liêng và đầy xúc động nhờ hàng loạt từ ngữ Hán – Việt được đan cài, như để điếu viếng anh linh người lính. “Chiến trường” và “đời xanh” là hai khoảnh khắc hoàn toàn đối lấp: một bên là hiểm nguy, tàn khốc còn bên kia là quãng đời tuổi trẻ đẹp đẽ, xanh tươi. Câu thơ thứ hai mang sức nặng như đổ dồn vào ai tiếng phủ định: ‘chẳng tiếc’, cho thấy rằng những chiến binh Tây Tiến đã dứt khoát lựa chọn đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, họ coi cái chết nhẹ tựa lồng hồng, như Tố Hữu cũng từng nhắc đến:
“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngả mình trên nếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm mát lúa đồng xanh.” (‘Trăng trối’ – Tố Hữu)
Nhờ đó, sự hi sinh của các anh trở nên cao cả, lớn lao hơn bao giờ hết. Họ ra đi rời xa đồng đội để trở về với lòng đất mẹ – nơi tựu nghĩa của những anh hùng tráng sĩ thuở xưa, để rồi tấm áo thường ngày ra trận – tấm áo thấm mồ hôi, sương máu đã hóa thành “áo bào” của những người đời đời bất tử. Quang Dũng trân trọng sử dụng nhã ngữ khi diễn tả sự ra đi ấy, như thể tất cả những người còn sống đang nén lòng mình lại, tiễn đưa đồng đội một cách trọn nghĩa vẹn tình nhất. Nỗi đau như ứa lệ, rớm máu trong lòng người lính Tây Tiến, nó dâng đầy lên, gửi vào tiếng thác ghềnh sông Mã. Tiếng đau như tiếng gầm thét chấn động vũ trụ, mang âm vọng sử thi bi tráng, bởi đó còn là tiếng khóc thương của cả một thời đại, một dân tộc vì Tổ quốc đã mất đi những người con ưu tú.
*** Bài thơ khép lại trong một khúc vĩ thanh, cũng là một lời thề tâm nguyện của người lính:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi.”
Dù con đường hành quân mưa dầu nắng dãi, trải qua nhiều gian khổ hi sinh, song, tấm lòng của người lính Tây Tiến trước sau vẫn mãi thủy chung với đồng đội, với Tổ quốc, với lí tưởng lòng mình. Các anh không dám hứa hẹn gì với người ở lại, cũng chẳng mong ước gì cho riêng bản thân mình. Đường lên Tây Bắc, xa xôi ngút ngàn, ‘thăm thẳm một chia phôi’ – thăm thẳm về thời gian, không gian và nỗi nhớ, chỉ có ‘một chia phôi’ với Hà Nội, với gia đình, mái trường và người yêu. Họ quên đi tất cả những tình cảm riêng tư vì nghĩa lớn với non sông. Đại từ phiếm chỉ “ai” muốn nói đến tất cả những người đã lên Tây Tiến vào “mùa xuân ấy” – mùa xuân năm 1947 , hay chính là vào khoảng thời gian tuổi trẻ. Tâm hồn của họ khi còn sống, linh hồn của họ khi đã khuất đều hướng về Sầm Nưa – vùng được giải phóng đầu tiên, và nguyện gắn bó với đoàn binh cho đến thắng lợi cuối cùng. Giọng điệu khảng khái, dứt khoát trùm lên toàn khổ thơ, như một hành khúc lên đường mang âm hưởng hùng tráng cùng núi non.
ĐÁNH GIÁ: Nêu như thơ Chính Hữu được coi là trữ tình điệu nói, “không phải để ngâm mà là để đọc” (Đỗ Chu), thì thơ Quanng Dũng lại là trữ tình điệu ca, với lời thơ ngân vang theo nhịp bước chân, vừa hùng tráng, vừa tha thiết. Nhờ những vần thơ giàu nhạc, họa cùng hệ thống các biện pháp tu từ đặc sắc, đậm phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng, “Tây Tiến” đã trở thành một thành tự đầu mùa của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp, và là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất về chủ nghĩa yêu nước, về anh bộ đội cụ Hồ trong chiến tranh ai quốc.
KẾT BÀI: Đoạn thơ góp phần xây dựng chủ đề của bài thơ “Tây Tiến”, đưa tác phẩm lên vị trí hàng đầu của thơ ca thời kì lửa cháy. Không phải ngẫu nhiên khi đọc xong bài thơ này, tuy gấp lại trang sách đã lâu, nhưng giai điệu hào hùng của một khúc độc hành ca một thời vẫn giăng mắc trong tâm hồn người đọc, như một minh chứng của những vần thơ trường tồn cùng tháng năm, như nhà thơ Trần Lê Văn cũng cảm nhận:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Những con người ấy, bài thơ ấy
Vẫn sống muôn đời cùng núi sông.”
<3_banhmithiu_





